Số 0 là chữ số cuối cùng trong hầu hết các hệ thống số, nó được phát triển đầy đủ sau Công nguyên. Vậy ai là người phát minh ra số 0? Trong bài viết dưới đây sẽ cho các bạn biết đáp án, hãy tham khảo ngay nhé!
Mục Lục
Ai là người phát minh ra số 0?
0 là số nguyên đứng liền trước số dương 1 và liền sau số -1. Số 0 là một số nguyên xác định một số lượng hoặc một lượng hay kích thước có giá trị là rỗng.
Số 0 được coi là một khám phá vĩ đại trong lịch sử loài người. Nếu không có số 0, các phép tính số học sẽ rất khó làm, vì con người khi đó chưa phát minh ra máy tính, và hầu như chúng ta không thể giải được các phương trình toán học phức tạp.
Bên cạnh đó, ADN con người được tạo thành từ 4 ký tự lần lượt A, C, G, T. Trong khí đó cỗ máy “AND” chỉ gồm có hai kí tự là 0 và 1. Xét tới tầm quan trọng của máy tính, có thể thấy rõ số 0 tạo ra 50% sự thành công xuất sắc của những cỗ máy thống kê giám sát. Nếu không có số 0, có lẽ rằng hàng loạt kỷ nguyên số này sẽ sụp đổ.
Vậy ai là người phát minh ra số 0? Vào thế kỷ thứ VII ở ấn Độ khái niệm về số 0 đã bắt đầu. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng nhiều nền văn minh cổ đại khác nhau như người Sumer hay Babylon cổ đại đã sử dụng số 0, nhưng chỉ dùng nó như một vật giữ chỗ, là một biểu tượng đại diện cho một thứ gì đó không hiện hữu nhưng lại tồn tại.
Đọc thêm: Ai phát minh ra bóng đèn? Quá trình phát minh ra bóng đèn
Khám phá lịch sử của số 0
Trong bản thảo Bakhshali, niên đại được cho là khá cổ, số 0 đã có ký hiệu và được sử dụng với vai trò một con số.
Năm 498, nhà toán học và thiên văn học Ấn Độ Aryabhata viết rằng “Stanam stanam dasa gunam”, là vị trí này có giá trị gấp 10 vị trí kia, đây có lẽ là nguồn gốc của hệ thập phân hiện đại. Ở hệ thống số của Aryabhata có một số 0 trong cách ký hiệu chữ số bằng chữ cái của ông. Lần xuất hiện đầu tiên của số 0 trong toán học là trong Brahmasphuta Siddhanta của Brahmagupta, với các suy xét về các quy tắc đại số, các số âm.
Người Olmec ở miền Nam – Trung Mexico bắt đầu sử dụng chữ số 0 bằng việc vẽ hình vỏ sò tại Tân Thế giới khoảng thế kỷ thứ tư trước Công nguyên. Điều này đã trở thành một phần của các chữ số Maya nhưng lại không ảnh hưởng đến các hệ thống chữ số tại Cựu Thế giới.
Đến năm 130, nhà thiên văn Ptolemy, người đã chịu ảnh hưởng của Hipparchus và người Babylon, đã ký hiệu cho số 0 bằng hình dạng tròn có đầu gạch dài ra trong hệ cơ số 60, các số khác thì sử dụng hệ thống số Hy Lạp. Số 0 ở đây được viết riêng lẻ đã là một trong những ký tự số không Helen đầu tiên được viết ra trong Cựu Thế giới. Khoảng thời đế quốc Byzantine, trong các bản viết tay Syntaxis Mathematica số không Helen đã biến dạng thành một chữ cái Hy Lạp Omicron (giá trị của chữ số này là 70).
Vào năm 525, Dionysius Exiguus sử dụng một số không khác và dùng trong các bảng song song với hệ thống số La Mã. Cách viết của Dionysius Exiguus là một từ nulla nghĩa là không có gì hết, và không có dạng một ký hiệu. Cách dùng này khá tương ứng với hệ thống của Aryabhata (Phạn ngữ, Āryabhaṭa một nhà thiên văn thiên tài thời cổ Ấn Độ sinh năm 476), đã có thể biểu thị một khái niệm thực, đó là số không toán học. Tuy nhiên, việc này không được rõ ràng cụ thể giống với phép chia của Brahmagupta (598-668) cho ra dư số bằng không, đã dùng từ nihil (nghĩa là không có gì).
Các dạng số không thời Trung cổ được sử dụng bởi các chuyên gia tính toán thời bấy giờ. Trong một trường hợp riêng lẻ, ký tự N, đã được Bede hay của các đồng sự dùng trong một bảng hệ thống số La Mã vào năm 725 là một ký hiệu của số không.
Đến thế kỉ thứ 7, cùng thời Brahmagupta, tại Campuchia một số khái niệm về số không chắc chắn đã đạt được. Từ đó số 0 sau này đã lan rộng đến Trung Quốc và thế giới Hồi giáo.
Xem thêm: Internet có từ bao giờ? Ai phát minh ra internet?
Trên đây là thông tin giải đáp thắc mắc về Ai là người phát minh ra số 0 mà chúng tôi tổng hợp lại, mong rằng bài viết hữu ích với các bạn. Nếu các bạn cần tìm hiểu thêm thông tin nào có thể để lại bình luận ở phía dưới bài viết nhé!